Tác động của EVFTA (Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu) đến lĩnh vực giáo dục
Đăng ngày 28/09/2020
502 lượt xem
1. EVFTA là gì?
EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2020. Đây là một dấu mốc mới trên hành trình cải cách và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam. Với việc phê chuẩn hiệp định này, Liên minh Châu Âu, một thị trường khó tính với những chuẩn mực cao nhất thế giới, đã chính thức ghi nhận những nỗ lực cải cách, xây dựng thể chế kinh tế thị trường và phát triển bền vững của Việt Nam và quyết tâm tăng cường hợp tác với Việt Nam
Trong Hiệp định EVFTA, đối với lĩnh vực liên quan đến văn hóa – tư tưởng, ta không cam kết mở cửa thị trường. Cụ thể, trong dịch vụ giáo dục, dù ta đã có những cam kết nhất định về mở cửa thị trường trong WTO và các FTA hiện hành nhưng vẫn bảo lưu được quyền không cho phép đầu tư nước ngoài để cung cấp dịch vụ giáo dục trong các môn học về an ninh, quốc phòng, chính trị, tôn giáo, văn hóa Việt Nam và các môn học khác cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội Việt Nam.
2. Tác động của EVFTA đến lĩnh vực giáo dục
Ngoài việc xóa bỏ đến 99% thuế quan xuất khẩu, Hiệp định EVFTA còn được kỳ vọng sẽ mang đến nhiều cơ hội việc làm, gia tăng thu nhập cho người lao động Việt Nam. Tuy nhiên, cũng từ đây EVFTA có thể sẽ đặt các doanh nghiệp trước những cạnh tranh về nguồn lao động cũng như thách thức về nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ đó đặt ra vấn đề với nền giáo dục đào tạo nước nhà. Để có được lợi thế cạnh tranh về lao động không chỉ là lao động giá rẻ mà đòi hỏi phải cung cấp một nguồn lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức tiêu biểu, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ, biết vận dụng sáng tạo những tri thức những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội một cách hiệu quả nhất. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi các cơ sở giáo dục:
Thứ nhất: Cần tăng cường nhận thức cho người học về các vấn đề về lao động, việc làm trong tương lai. Từ đó người học tự ý thức và có cách thức học tập, nghiên cứu để tích lũy các kỹ năng, kiến thức cần thiết nhằm tăng cơ hội việc làm của mình.
Thứ hai: Cần tập trung vào đào tạo nghề, tăng kỹ năng thực hành cho người học trong quá trình đào tạo. Ngoài việc các cơ sở giáo dục xây dựng, điều chỉnh chương trình đào tạo thì cần tăng cường đầu tư thiết bị giáo dục để tiến gần hơn với sự phát triển công nghệ ngoài thực tiễn. Để thực hiện tốt vấn đề này đòi hỏi cơ sở giáo dục phải có nhiều vốn, đây là vấn đề khó đối với các cơ sở đào tạo. Các cơ sở đào tạo cần được cổ phần hóa và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp để tiếp cận với công nghệ mới. Bên cạnh đó các cơ sở đào tạo nắm bắt được nhu cầu cũng như đòi hỏi các kiến thức, kỹ năng cần có của người lao động để có cách thức đào tạo phù hợp
Thứ ba: Trong giáo dục cần coi trọng môi trường sáng tạo và khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực. Điều này tạo ra lượng lao động có khả năng quản lý, lãnh đạo, có tầm nhìn chiến lược trong tương lai